Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Đề bài: Hãy phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

6 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

1. Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, mẫu số 1:

Thế Lữ (1907-1989) là bút danh của Nguyễn Thứ Lễ. Nổi tiếng với việc sáng tác thơ, truyện, kịch và đạo diễn. Ông còn là Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, có nhiều thành tựu xuất sắc trong nhiều lĩnh vực.

Thế Lữ được biết đến là một thi sĩ tiên phong, được ca tụng là 'Đệ nhất thi sĩ' trong phong trào 'Thơ mới' (1932-1941). Tác phẩm nổi bật như 'Mấy vần thơ' thể hiện một 'hồn thơ mở lớn', với cảm xúc lãng mạn, sâu sắc, say đắm và đầy tình cảm.

Bài thơ 'Nhớ rừng'' của Thế Lữ viết năm 1934, xuất bản trong tập 'May vần thơ' năm 1935. Sử dụng hình ảnh con hổ bị giam cầm tại vườn Bách thú, tác giả thể hiện tâm trạng uất hận, căm ghét và khát khao tự do mạnh mẽ của con người bị giam giữ, nô lệ.

Cầm trên mình nỗi căm hận trong cái chuồng bằng sắt.

Bị giam giữ 'trong cái chuồng sắt', nỗi căm hận và uất hận hình thành thành một 'khối', 'gặm'' mãi mà không tan ra, càng 'gặm'' càng trở nên chua cay. Chỉ biết 'nằm dài' vô dụng, đau khổ. Bị 'chế giễu'', bị 'nhục nhằn tù hãm'', trở thành 'đồ chơi'' cho 'bọn gấu dở hơi, với đôi báo chuồng bên tự lự''. Đau khổ nhất là vị thế cao quý của chúa sơn lâm nay bị hạ thấp, bị làm thường dân:

'Chịu đựng trước đám gấu ngơ ngác,Với cặp báo chuồng bên ngoài tự do tự tại''.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Phân tích bài thơ Nhớ rừng để hiểu tâm trạng của nhà thơ Thế Lữ đối với thời đại

Là hình ảnh tâm lý đặc sắc của chúa sơn lâm khi trải qua biến cố, thất thế, bị giam giữ. Trong bối cảnh lịch sử nước ta khi bài thơ được sáng tác (1934), nỗi tủi nhục, căm hận, đau đớn của con hổ tương đồng với bi kịch của nhân dân sống dưới cảm giác xiềng nô lệ, đấu tranh trong bóng tối của 'nhơ nhuốc lầm than''.

Chúng ta mãi sống trong tình yêu và ký ức.

'Tình yêu và ký ức'' tồn tại mãi, không bao giờ phai nhạt. Nhớ về 'thời thăng trầm...', 'nhớ bóng cây già che phủ cả khu rừng'. Nhớ giai điệu rừng hùng vĩ, mạnh mẽ. Từ 'nhớ'' và 'với'' cùng với cách ngắt nhịp (4-2-2, 5-5, 4-2-2...) biến đổi, sáng tạo.

làm nổi bật nỗi nhớ không tận, nhớ sâu sắc, nhớ đắng cay. Sự đa dạng về âm nhạc đã tả họa cuộc sống tâm hồn mạnh mẽ của một cá nhân phi thường với quá khứ huy hoàng. Một bức tranh 'như sóng cuộn mềm mại'. Một bước đi hùng vĩ, tràn đầy uy lực 'dõng dạc, đường hoàng'. Cặp mắt 'thần thánh'' khi đã 'đằng cấp'; 'mọi thứ đều im lặng'. Sức mạnh uy quyền không thể xâm phạm.

Những đoạn thơ phong cách nhạc về nỗi nhớ:

'Nhớ bóng cây già che phủ sơn lâmVới tiếng kêu gào vang vọng, với giọng hát của núi.Với khi hát khúc ca trường ca hùng vĩChúng ta bước chân cao quý, dõng dạc, đường hoàng,Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp mềm mạiVòng quanh âm thầm, lá chông, cỏ xanhTrong hang đen tối, đôi mắt thần khi đã đằng cấpLàm cho mọi thứ trở nên yên bình...'

Những động từ 'gào, hét, thét' mô tả âm nhạc cuộc sống của rừng núi, dòng suối thiêng liêng, hùng vĩ. Đó là những câu thơ tinh tế làm phong cách cho thơ mới

'Ta nằm dài'... sau đó 'ta sống mãi trong tình yêu và ký ức'. Nhớ về lúc 'bước chân lên...', nhớ khoảnh khắc vàng son trên đỉnh đỉnh:

'Ta biết mình là chúa tể của mọi loài,Ở giữa thiên đàng vô danh, vô tuổi'.

Chữ 'ta' rộn lên với lòng kiêu hãnh và tự hào. Chúa sơn lâm được vẽ nên trong chiều sâu tâm linh, với vị thế uy quyền được khẳng định.

Câu hỏi tu từ nối tiếp nhau như làn sóng thức tỉnh và kích thích nỗi 'nhớ'' trỗi dậy: 'ở đâu những...', 'ở đâu những ngày...', 'ở đâu những bình minh...', 'ở đâu những chiều...'. Ký ức không ngừng, nhớ suốt đêm và ngày, sáng và tối, mưa và nắng, thức và ngủ, khi say và lúc tĩnh ngắm, lúc chờ đợi... Một không gian nghệ thuật được tái tạo và mô tả qua bốn khía cạnh của một danh họa. Chúa sơn lâm có thời điểm uốn lưỡi giữa cảnh suối trăng, có khi đắm chìm trong niềm chiêm ngưỡng, có khi nén xuống, kiên trì đợi chờ để 'tự do...' và 'đắc cảm...'!

Trong bài thơ 'Nhớ rừng', đoạn thơ 10 câu là nguồn cảm hứng tuyệt vời nhất của tác giả:

'Dưới bóng trăng, ta đứng say đắm bên suối,Những đêm mưa, thiên nhiên hòa quyện mênh mang.Mặt trời mở đầu ngày mới, cây xanh tận hưởng ánh sáng,Chim hòa mình trong bản hòa nhạc tuyệt vời của tự nhiên.Máu rừng tràn ngập sau những cơn mưa,Ta chờ đợi ánh sáng mặt trời mạnh mẽ,Để chiếm lấy bí mật của thế giới tự nhiên.Oh, những thời kỳ hùng vĩ, giờ đâu rồi?'

Sau thời kỳ hoàng kim, thời điểm sống đầy hứng khởi và hùng mạnh, chúa sơn lâm bỗng tỉnh giấc, quay trở lại hiện thực khắc nghiệt với cuộc sống nhọc nhằn, đau đớn và đầy chua xót. Như một núi đổ sập, hổ mãnh phát biểu lên tiếng than thở. Sự kết hợp của cảm thánh và câu hỏi tu từ tạo nên bức tranh thơ, một tiếng thanh ca của 'hùm thiêng sa cơ', của người đang trải qua thất bại phi thường. Đây cũng chính là âm thanh thanh thản của những người đang khao khát tự do hồi đó:

'Oh, những thời kỳ hùng vĩ, giờ đâu rồi?'Giờ đây, ta ôm trọn nỗi hận thù nghìn thu.

Quay về nỗi đau buồn và ký ức về 'cảnh nước non hùng vĩ'. Chỉ còn biết nhấn mạnh và lo lắng:

'Hỡi cảnh rừng kinh hoàng của ta ơi!'

'Nhớ rừng' là một bức tranh thơ tuyệt vời. Nó thuộc loại những bài thơ xuất sắc nhất của thời kỳ Thơ mới. Hình tượng lộng lẫy, tráng lệ. Lối diễn đạt và sử dụng ngôn ngữ tinh tế. Âm nhạc đa dạng và phức tạp tạo nên những dòng thơ huyền bí. Thơ mang đến hình ảnh hấp dẫn và làm say đắm tâm hồn chúng ta.

Chúa sơn lâm, biểu tượng của nỗi nhớ rừng, được mô tả như 'lớp lớp sóng dồi'. Giữa nỗi đau khổ, sự thất thế, vẫn tồn tại niềm kiêu hãnh và tự hào. Bài thơ là thông điệp tri ân về tình yêu quê hương. Ý nghĩa lớn nhất của bài thơ là thể hiện giá trị của tự do và lòng khao khát tự do.

""""-KẾT THÚC PHẦN 1"""""-

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ là một hành trình tuyệt vời. Tiếp theo bài học này, chúng ta sẽ bước vào việc trả lời câu hỏi và Soạn bài Nhớ rừng, đồng thời khám phá Tâm trạng của con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ để nắm vững kiến thức Ngữ Văn.

2. Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, mẫu số 2:

Thế Lữ, một nhà văn tài năng từ những ngày đầu, đã để lại dấu ấn rõ nét trong văn hóa Thơ Mới. Tác phẩm nổi bật như Nhớ Rừng là minh chứng cho sự đóng góp quan trọng của ông.

Trong bài thơ Nhớ Rừng, Thế Lữ chia sẻ tâm trạng u uất, chán nản và khao khát tự do bằng cách lồng ghép cảm xúc vào từng lời mượn của con hổ trong khu vườn bách thú. Điều này phản ánh tâm trạng chung của những người yêu nước Việt Nam trong bối cảnh mất nước.

Trong giai đoạn đầu của Phong trào Thơ Mới, sự phát triển không chỉ nằm ở phong cách mà còn tại nội dung. Thơ Mới từng bước giải phóng khỏi quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính 'phi ngã' của thơ cổ điển. Những nhà thơ khám phá thế giới qua giác quan và cảm xúc chân thực, thể hiện cái tôi rõ nét. Thơ Mới là sự vươn lên của cảm xúc mạnh mẽ vượt lên trên thực tế. Điều này cũng thể hiện qua sự phản kháng, bất hoà và bất lực trước tình hình xã hội. Thơ Mới là cách thể hiện phản kháng mạnh mẽ trước thực tế giả dối và gò ép ước mơ con người.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Những bài Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ xuất sắc nhất

Chia sẻ cùng thái độ phản kháng, Thế Lữ đã sáng tác những dòng thơ đậm chất tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Bằng cách mượn lời của con hổ trong khu vườn bách thú, Thế Lữ mô tả tâm trạng của mình. Khung cảnh được xây dựng rất chân thực nhưng cũng mang đầy những ý nghĩa sâu sắc. Tất cả hình ảnh trong bài đều xoay quanh cuộc sống của con hổ, từ việc bị giam cầm trong lồng sắt đến cảm nhận về cuộc sống bị chật chội, tù túng, những cảnh 'tầm thường giả dối' tại vườn bách thú. Điều này làm nổi bật sự tiếc nuối của con hổ về quá khứ hùng vĩ nơi núi rừng.

Hổ, loài vật vốn được coi là vị chúa tể của muôn loài, nhưng bây giờ lại phải trải qua cảnh 'nhục nhằn' trong lồng sắt. Cuộc sống của chúa tể rừng xanh giờ đã bị thu hẹp, biến thành một 'trò lạ mắt', một 'đồ chơi' trong ánh nhìn của mọi người. Với nó, cuộc sống hiện tại trở nên nhạt nhẽo, vô vị khi phải sống ở một nơi không xứng đáng với tư cách của một vị chúa sơn lâm.

Gậm một khối căm hờn trong lồng sắtTôi nằm dài nhìn thời gian trôi qua

Hổ cảm thấy bất lực vì không tìm thấy cách thoát khỏi cuộc sống tù túng. Dù phải đối mặt với những tình huống khó khăn, kẻ thuộc 'giống hùm thiêng' vẫn giữ vững thân phận của mình là một vị chúa. Ở tuổi ba mươi, hổ hiểu rõ sức mạnh thiên nhiên hơn những con người 'ngạo mạn ngẩn ngơ' chỉ biết 'giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm'. Chán nản trước cuộc sống phải sống cùng 'bọn gấu dở hơi', với 'cặp báo chuồng bên vô tư lự'! Không thể chấp nhận số phận của những 'người bạn' đồng cảnh ngộ, nỗi buồn, nỗi uất hận tích tụ trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong tình cảnh khó khăn đó, hổ nhớ về cuộc sống huy hoàng quá khứ:

Tôi sống mãi trong tình thương và niềm nhớThuở tung hoành hống hách những ngày xưaNhớ về cảnh sơn lâm bóng cây giàVới tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núiVới khi thét khúc trường ca dữ dội...

Hổ hồi tưởng về thời kỳ 'hống hách' ở 'bóng cây già'. Nó nhớ về rừng thẳm với nỗi đau đớn của sự tự do, nhớ về 'thời oanh liệt', ký ức về sự cao quý, chân thực, tự nhiên. Ở chốn nước non hùng vĩ đó, con hổ giữ vững sức mạnh giữa cuộc sống. Bản lĩnh của vị chúa sơn lâm luôn thể hiện đúng quyền lực tối cao với sức mạnh phi thường dữ dội. Nơi đó, hổ vươn lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ, vẻ đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:

Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàngLượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngVòng bóng âm thầm lá gai cỏ sắcTrong bóng tối mắt thần khi đã quắcLà khiến mọi vật phải im hơiTa biết ta chúa tể của muôn loàiGiữa chốn thảo hoa không tên không tuổi

Vẻ đẹp thực sự của hổ nằm trong từng bước chân, từng tấm thân, từng ánh mắt. Loài mãnh thú này toát lên sức mạnh dũng mãnh và đồng thời giữ vững vẻ nhẹ nhàng uyển chuyển. Hổ đã thể hiện sức mạnh tuyệt vời khiến cho tất cả phải 'im hơi'. Cuộc sống tự do giữa rừng thẳm luôn là điều quý giá. Ở đó, hổ thưởng thức cuộc sống đẹp, tận hưởng khung cảnh lộng lẫy và quyến rũ. Nhưng giờ đây, tất cả chỉ còn là ký ức. Hổ không còn trải nghiệm cảnh 'đêm vàng bên bờ suối', không còn ngắm nhìn 'ngày mưa chuyển bốn phương ngàn', không còn nghe tiếng chim hót, không còn đắm chìm trong cảnh 'bình minh cây xanh nắng gội', không còn chờ đợi 'chết mảnh mặt trời' của những chiều 'lênh láng máu sau rừng'. Những hình ảnh đó chỉ để lại trong hổ cảm giác tiếc nuối, xúc động mạnh mẽ, và câu hỏi đau đớn xót xa. Nỗi nhớ tràn ngập trong tâm hồn, và giấc mơ huy hoàng kết thúc bằng tiếng than thảm thiết:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu

Sống lại những hồi ức tươi đẹp ở nơi núi rừng hùng vĩ, hổ đột nhiên nhận ra sự giả dối của những khung cảnh hiện tại. Trong ánh nhìn kiêu hãnh của hổ, mọi thứ trở nên 'ít thay đổi', những cảnh trí đơn điệu và nhạt nhòa do con người chỉnh sửa và cố gắng 'bắt chước'. Chúa tể của rừng xanh bày tỏ sự khinh bỉ, chán ghét trước những cảnh vật nhỏ bé và giả mạo của thế giới nhân tạo. Đó không phải là nơi phù hợp cho một vị lãnh chúa. Dù có cố gắng sửa sang, nhưng đó chỉ là những 'dải nước đen giả suối chẳng thông dòng' chảy dưới những 'mô gò thấp kém', là những 'hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng' không có gì 'bí hiểm' hay 'hoang vu'. Những cảnh sống giả mạo ấy khiến hổ càng nhớ đến chốn 'ngàn năm cao cả âm u'.

Chán ghét cuộc sống hiện tại, ôm lấy niềm uất hận không dứt, hổ khao khát một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư và cảm xúc của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Qua đó, chúa sơn lâm đã truyền đi một lời nhắn tha thiết về núi rừng. Dù đang phải đối mặt với thách thức, nhưng hổ vẫn tỏ ra tự hào khi nói về 'nước non hùng vĩ'. Giang sơn ấy là nơi hổ trải qua những ngày tháng tươi đẹp, tự do vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Ngay cả khi không thể quay lại nơi xưa, hổ vẫn không ngừng nghĩ đến 'giấc mộng lớn lao'. Vị chúa đã mất ngôi đã kêu gọi để được sống mãi trong những ký ức, những hồi ức về vẻ đẹp mà không bao giờ quay lại:

Hãy để tâm hồn ta có thể gần ngươiỞi cảnh rừng đáng sợ của ta ơi

Nỗi lòng của hổ giống như tâm sự của Thế Lữ, một chàng trai trẻ mơ ước về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Điều này cũng là tinh thần chung trong hầu hết các bài thơ của Thế Lữ và trong phong trào Thơ Mới, thể hiện lòng khát khao của con người muốn sống chân thật với bản thân.

Nhớ Rừng, là nỗi buồn không thoát ra, một tâm bệnh của thời đại, nhưng bài thơ nổi bật vì nó tạo nên sự gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực tại của thế hệ trẻ trí thức tiểu tư sản. Đồng thời, thổi bùng niềm khao khát tự do chính đáng.

Tràn đầy cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng lan tỏa hồn thơ hối thúc và những hình ảnh thơ đầy ấn tượng mô tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thế Lữ thành công khi thể hiện trí tưởng tượng phong phú, mô tả tình cảm kín đáo và sâu sắc thông qua hình ảnh con hổ trong vườn bách thú, diễn đạt nỗi chán ghét cuộc sống tù túng và đồng thời thắp lên tình yêu nước của người dân xưa.

3. Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, mẫu số 3:

Thế Lữ, tên đầy đủ Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907, qua đời năm 1989, quê ở Bắc Ninh, được đánh giá là một trong những đại diện tiên phong của trào lưu Thơ Mới (1932 - 1945). Với tâm hồn dạt dào cảm xúc và sự tài tình trong sử dụng ngôn ngữ, ông đã đóng góp quan trọng cho sự đổi mới của thơ ca Việt Nam. Ngoài tuyển tập Mấy vần thơ xuất bản năm 1935, Thế Lữ còn sáng tác nhiều loại văn học khác như truyện trinh thám, kinh dị, đường rừng, kịch... Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực sân khấu và có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển ngành kịch nói ở Việt Nam.

Thế Lữ, một cái tên không thể phai mờ khi nhắc đến bài thơ Nhớ rừng, đã chinh phục trái tim của nhiều người hâm mộ. Tận dụng hình ảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, tác giả đã mô tả tâm trạng uất hận và chán ghét cuộc sống tầm thường, đầy u ám. Bằng cách này, ông thể hiện sự phủ nhận thực tại nô lệ, khao khát tự do mãnh liệt và tình yêu nước sâu sắc của nhân dân.

Để hiểu sâu hơn về tác phẩm, chúng ta cần tìm hiểu về Thơ mới và phong trào này.

Ban đầu, Thơ mới chỉ đơn thuần là tên gọi cho thể thơ tự do mới xuất hiện. Từ năm 1930, nhiều thi sĩ trẻ theo đuổi học thuyết phương Tây và đồng thanh tiếng phê phán thể thơ cũ (thơ Đường luật) làm hạn chế, bó buộc. Phong trào Thơ mới nảy sinh và phát triển mạnh mẽ trong khoảng mười lăm năm, sau đó dần chuyển sang giai đoạn bế tắc.

Trong Thơ mới, số lượng bài thơ tự do không nhiều, chủ yếu vẫn là thể thơ bảy chữ và lục bát. Mặc dù vậy, Thơ mới tự do hơn, tự nhiên hơn nhiều so với thơ cũ, không bị ràng buộc bởi những quy tắc niêm luật. Thể loại Thơ mới sau này trở thành biểu tượng của trào lưu thơ ca lãng mạn, liên quan chặt chẽ với những thi sĩ nổi tiếng như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Phạm Huy Thông...

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Một mẫu văn Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ được Lựa Chọn

Cuộc tranh cãi giữa Thơ mới và thơ cũ nảy lên khốc liệt trên các báo. Cuối cùng, Thơ mới giành chiến thắng không qua lời luận, mà là thông qua những bài thơ xuất sắc. Về vai trò của Thế Lữ, nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét: 'Thế Lữ không nói về Thơ mới, không bênh vực Thơ mới, không chấp nhận tranh cãi, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ im lặng, chỉ bước đi một cách chín chắn mà trong khoảnh khắc, làm cho dàn thơ sĩ trước đó phải chấn thương. Bởi vì không có gì làm người ta tin vào Thơ mới nhiều hơn là việc đọc những bài thơ mới hay'. (Nhà thơ Việt Nam).

Trong vai trò của mình, Thế Lữ không chỉ là người đứng đầu đẩy mạnh thế lực của Thơ mới mà còn là một nhà thơ biểu tượng cho giai đoạn đầu của nghệ thuật Thơ mới (1932 - 1935). Bằng việc chọn bút danh Thế Lữ, ngoài việc đùa cợt với cái tên Thứ Lễ, ông còn ám chỉ bản thân như là một lữ khách đang lang thang trên thế gian, luôn tìm kiếm vẻ đẹp đa dạng của cuộc sống:

Tôi là kẻ phiêu bạtĐi khắp thế gian để tận hưởng niềm vui

(Âm nhạc của cây đàn)

Mặc dù tuyên bố như vậy, trong tâm hồn Thế Lữ vẫn lưu giữ nỗi buồn mất nước. Trong bài thơ Nhớ Rừng, nhà thơ lựa chọn sử dụng nỗi u uất của con hổ sa cơ để diễn đạt tâm trạng bi phẫn của anh hùng chiến thắng nhưng vẫn đẹp, vẫn hùng vĩ.

Nhớ Rừng được viết theo thể thơ tám chữ, với vần liền (hai câu liền nhau có chung vần). Sử dụng vần bằng và vần trắc để tạo nên âm nhạc nhẹ nhàng, đều đặn. Thể loại thơ này khá phổ biến trong phong trào Thơ mới.

Bức tranh trong bài thơ có hai mảnh: vườn Bách Thảo, nơi con hổ bị giam cầm, và rừng núi đại ngàn, nơi nó tự do tung hoành những ngày đã qua. Cảnh trên là hiện thực, còn cảnh dưới là quá khứ và cũng là giấc mơ, khao khát mãnh liệt.

Tình cảnh bị giam cầm là nguồn gốc của tâm trạng bi thương chất ngất của con hổ. Tính bi thương thể hiện ở việc môi trường sống thay đổi đột ngột, nhưng bản chất của con hổ không thay đổi. Nó không thể chấp nhận thực tế và luôn giữ vững bản thân là chúa tể của mọi sinh linh. Việc chấp nhận sẽ làm mất đi bản tính của nó. Tâm trạng uất hận, bất mãn, và sự đau đớn mãnh liệt của con hổ bị giam cầm làm chủ đạo, làm ngấm sâu vào từng câu, từng lời.

Nhà thơ mô tả tâm trạng đó bằng bút pháp tinh tế và tài năng:

Nén một khối oan trái trong lồng sắt,Ta nằm đó, theo dõi thời gian trôi qua,Khinh thường bọn kia kiêu ngạo, lơ đãng,Ngắm nhìn bằng ánh mắt bé nhỏ vẻ oai vệ của rừng sâu.Ngày nay sa cơ, bị nhục nhằn, bị giam cầm,Trở thành trò chơi mới lạ, một món đồ chơi,Phải chịu đựng trước đám đông tò mò ngôi chuồng,Cùng bọn gấu hài hước với đôi báo nhỏ bé bên cạnh.

Đoạn thơ là biểu hiện của sự đau đớn đau xót của vị chúa sơn lâm bị nhốt trong một không gian hẹp, ngột ngạt.

Trong câu thơ đầu, những thanh trắc liền kề với nhịp thơ chậm, ngắt quãng, hình dung một mối hờn căm nặng nề trong tâm hồn. Con hổ muốn hạ đè nặng đó nhưng không thành công, chỉ còn nằm đó trông ngóng ngày tháng trôi qua. Câu hai kéo dài thanh bằng là biểu hiện của tình cảnh bị ràng buộc và tâm trạng chán ngán tột cùng của vị chúa sơn lâm.

Từ vị thế chúa tể được thờ, sùng bái, tự do lang thang giữa núi rừng hùng vĩ, nay trở thành tù nhân, bị nhốt trong lồng sắt, hổ cảm thấy nhục nhằn và tù hãm. Chúa sơn lâm phẫn nộ khi trở thành trò lạ mắt, đồ chơi của lũ người nhỏ bé và ngạo mạn, bị đánh bại bởi bọn gấu ngu xuẩn, cùng với cặp báo chuồng bên cạnh. Mọi cố gắng thoát khỏi tình trạng này đều vô ích, hổ chỉ còn biết nằm đó với tâm trạng bất lực.

Thực tế đau lòng khiến hổ càng đau đớn nhớ về những thời kỳ tự do giữa thiên nhiên hùng vĩ:

Sống mãi trong nỗi nhớ và tình thương,Thuở tung hoành giữa núi rừng cao thẳm.Nhớ sơn lâm, bóng cây già đen tối,Nghe gió gào thét, giọng suối reo vang,Khi hát khúc ca trống trải dài,

Phủ nhận hiện tại phũ phàng, chúa sơn lâm chỉ có hai hướng: quay về quá khứ hoặc mơ ước về tương lai. Hổ không thể có tương lai, chỉ còn lại quá khứ. Ánh sáng rực rỡ của quá khứ tạo ra ảo giác, và trí tưởng tượng kéo cánh cửa bay cao tận cùng.

Chúa sơn lâm hiểu rõ rằng quá khứ đã qua mãi mãi. Tâm trạng của nó vừa tự hào, vừa đau khổ và tuyệt vọng.

Những từ ngữ tươi đẹp nhất, gợi cảm nhất như bóng cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng suối hét lên từ núi, vùng vẫy, bí mật... được tác giả sử dụng để mô tả cảnh đẹp hùng vĩ, hoang dã và sức sống mạnh mẽ của khu rừng sâu và núi thẳm - lãnh thổ trải dài bao đời của gia tộc chúa sơn lâm. Đó là vùng đất cao cả âm u, là cảnh rừng rợn người không từ vựng nào diễn đạt đúng.

Trên bức tranh hùng vĩ đó, chúa sơn lâm hiện hình với dáng vẻ oai phong, hùng tráng:

Ta bước chân lên, nhẹ nhàng, đường hoàng, Gợn sóng thân như múa, nhịp nhàng. Nắm bắt bóng âm thầm, lá gai và cỏ tươi. Trong hang tối, đôi mắt thần rọi sáng, Làm cho mọi thú vật yên lặng, lặng im. Ta nhận biết mình là chúa tể của muôn loài, Ở giữa thiên nhiên hùng vĩ, hữu tình và bất diệt.

Những hình ảnh phong phú đã mô tả sinh động vẻ đẹp mạnh mẽ, tinh tế và uyển chuyển của vị chúa tể rừng giữa núi rừng trang nghiêm, hùng vĩ.

Đoạn ba của bài thơ là như một bức tranh nghệ thuật tinh tế miêu tả phong cảnh tự nhiên trong những thời điểm khác nhau:

Nơi đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta đứng say sưa uống ánh trăng tan? Nơi đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, Ta ngắm giang sơn đổi mới mỗi khoảnh khắc? Nơi đâu bình minh nhẹ nhàng xoa dịu cây xanh, Tiếng chim hòa ca trong giấc ngủ thảnh thơi? Nơi đâu chiều ửng hồng, máu đổ sau rừng, Ta đợi chết dưới ánh mặt trời cuồng nhiệt, Để chiếm lấy những bí mật khó lẽo? Thương ôi! Thời kỳ huy hoàng nay đã mất hút ở đâu?

Bốn khung cảnh: những đêm huyền bí, những ngày tình cảm mưa rơi, những bình minh tuyệt vời, những chiều lấp lánh máu sau rừng, tất cả đều hòa quyện trong kí ức đầy tiếc nuối của con hổ sa cơ.

Là cảnh đẹp u buồn của những đêm vàng bên mép suối, vị thần rừng đứng đó, thưởng thức mồi dưới ánh trăng tan. Là những ngày mưa xoay chuyển khắp bốn phương, vị thần rừng im lặng nhìn ngắm vẻ đẹp của núi rừng... một sự đổi mới. Là cảnh bình minh, nắng rơi như mưa trên cây xanh, tiếng hòa nhạc của các loài chim rộn ràng. Cuối cùng là cảnh chiều lấp lánh máu sau rừng đầy mạnh mẽ, rực rỡ. Vị thần lớn của ngàn núi đang tự tin đợi chờ ánh mặt trời gay gắt, để chiếm lấy một phần bí mật của vũ trụ bao la. Câu chuyện của ngài lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài thơ, tạo nên bản hòa nhạc mạnh mẽ, hùng vĩ, thể hiện lòng tự trọng, tự hào của vị thần muôn loài.

Tuy nhiên, dù hoành tráng nhưng chỉ là ánh sáng phai mờ của quá khứ hiện lên trong kí ức. Những từ ngữ như: nơi đâu, nơi những... được lặp lại nhấn mạnh sự tiếc thương của con hổ đối với những thời kỳ phồn thịnh đã qua. Vị thần rừng dường như mơ mộng, chống đẩy trước sự thực tế khắc nghiệt mà ngài đang phải đối mặt. Giấc mơ tươi đẹp đã kết thúc với những tiếng thở dài buồn rầu:

Ôi thôi, thời đại hùng mạnh bây giờ đã ẩn mình ở đâu?

Mặc dù nhân vật chính trong bài thơ là con hổ, tự gọi mình là Ta (Ta sống mà..., Ta bước chân lên, Ta biết ta...), nhưng thực tế đó là biểu tượng cho 'cái tôi' của nhà thơ lãng mạn tỉnh giấc giữa xã hội đầy gò ép ồn ào.

Đoạn miêu tả vườn Bách Thảo qua góc nhìn khinh bỉ của vị thần rừng. Tất cả chỉ là sự sắp đặt đơn điệu, buồn tẻ, không gì sánh kịp với vẻ đẹp tự nhiên. Cố gắng mô phỏng cảnh đại ngàn hoang dã chỉ khiến nó trở nên tầm thường, giả dối và đáng ghét hơn:

Hôm nay, ta ôm trọn nỗi hận thù chảy ngập,Chán ghét những khung cảnh không bao giờ thay đổi,Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:Hoa chăm sóc, cỏ tỉa, lối đi phẳng lặng, cây trồng;Dải nước đen giả vờ là suối, nhưng không có dòng chảyNhuộm đen dưới bóng cây mô phỏng những đồi thấp;Những chiếc lá vừng nhỏ bé lành lặn, không có điều gì bí mật,Cũng cố gắng bắt chước vẻ hoang dãCủa nơi một ngàn năm vang danh, u ám.

Hình ảnh vườn bách thú, nơi con hổ bị nhốt, hoàn toàn đối lập với cảnh rừng sâu núi thẳm hoang vu nơi nó từng trị vì. Hoa chăm sóc, cỏ tỉa, lối đi phẳng lặng, cây trồng là biểu tượng ẩn dụ cho thực tế của xã hội hiện đại. Tâm trạng chán chường, khinh miệt rõ ràng trong thơ phản ánh tâm hồn của thanh niên trí thức đối mặt với sự hạn chế, đổ vỡ của thế giới xung quanh.

Cuối cùng, giọng thơ tình cảm của vị thần rừng đã tỏa sáng, làm tổng hợp lên những chia sẻ tận cùng của ngài:

Hỡi vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh nước non!Là nơi hầm thiêng mà ta từng cai trị,Nơi ta đắm chìm trong vùng vẫy hồi xưa,Nơi ta không thể bao giờ chứng kiến nữa!Có hay không trong những ngày phiêu bạt,Ta theo đuổi giấc mơ to lớn ngàn trùng,Để tâm hồn ta bay bổng, gần kề người,Hỡi cảnh rừng dữ dội của ta ơi!

Nhà thơ Thế Lữ thành công làm nổi bật sự không hài lòng sâu sắc và khát khao tự do mãnh liệt của vị thần rừng trước bức tranh hiện thực khó khăn, đau khổ. Bằng bút pháp tinh tế, hình ảnh hổ bị giam cầm chỉ còn cách gửi hồn về vùng đất hùng vĩ, những đỉnh núi thánh thót từ xa xưa. Tuy phải chịu đựng thực tế nhưng hổ không ngừng mơ về giấc mộng lớn lao, để tìm kiếm sự gần gũi với cái đẹp của cảnh rừng dữ dội. Nỗi không bằng lòng với hiện tại nhưng cũng không tránh khỏi xích xiềng nô lệ của vị chúa rừng một thời giờ phải chấp nhận và tự an ủi bằng những ước mơ lớn lao trong những năm tháng tù túng còn lại. Nỗi buồn sâu thẳm và tận cùng. Ôi! Quá khứ hào hùng và mãnh liệt giờ chỉ còn hiện hữu trong giấc mơ! Từ đáy lòng vị thần rừng xanh lơ bật ra tiếng thở dài than oán: Hỡi cảnh rừng dữ dội của ta ơi!

Tâm trạng của con hổ bị giam cầm là tâm trạng chung của người dân Việt Nam đang chịu đựng trong cảnh nô lệ, bị nhục nhã và tù túng, đầy niềm căm ghét và nhớ mãi về thời kỳ oanh liệt với những chiến công vẻ vang trong lịch sử. Bài thơ chạm vào tận đáy lòng người, nhanh chóng nhận được sự chú ý và tán thưởng từ công chúng.

Tác giả sử dụng lời của con hổ bị giam trong lồng sắt để thể hiện một cách toàn diện, sâu sắc tâm trạng phẫn nộ của thanh niên trí thức Tây học mới tỉnh táo về ý thức cá nhân, đầy thất vọng và căm ghét trước hiện thực bất công, ngột ngạt của xã hội ngày nay. Họ mong muốn phá vỡ xiềng xích nô lệ để 'cái tôi' có thể tự do và phát triển. Bài thơ Nhớ Rừng khiến nhiều người cảm thấy tác giả đã giúp họ diễn đạt nỗi đau khổ của cuộc sống nô lệ. Có thể coi đây là một tác phẩm yêu nước, tiếp nối truyền thống thơ trữ tình yêu nước trong văn chương pháp luật đầu thế kỷ XX.

Thế Lữ chọn một hình ảnh độc đáo, phù hợp với việc thể hiện chủ đề của bài thơ. Con hổ oai hùng được xem như chúa tể sơn lâm, một thời kỳ huy hoàng và oanh liệt ở vùng đất hùng vĩ, nhưng giờ đây lại bị giam cầm như một biểu tượng của anh hùng chiến thắng. Cảnh đại ngàn hoang dã tượng trưng cho thế giới tự do và bao la. Với hình ảnh sâu sắc đó, Thế Lữ đã thành công trong việc truyền đạt tâm trạng của mình trước thời đại qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ cao cấp, tinh tế, nhạc điệu du dương, đôi khi hùng vĩ, đôi khi bi thảm, làm thể hiện xuất sắc nội dung tư tưởng của bài thơ.

Bài thơ tràn ngập cảm xúc lãng mạn, thi hứng cuồn cuộn đổ ra từ ngòi bút của thi nhân. Điều này là đặc điểm đặc trưng của phong cách lãng mạn và cũng là yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ. Nhớ Rừng là một tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả. Nhắc đến Thế Lữ, người ta sẽ nhớ ngay đến Nhớ Rừng. Đó là niềm hạnh phúc và mãn nguyện của một thi sĩ.

4. Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, mẫu số 4:

Nhớ Rừng của Thế Lữ là một tác phẩm xuất sắc, đặc trưng của phong cách Thơ mới và của tác giả với tính chất tinh tế, tự do của Thơ mới cùng với tình cảm yêu nước sâu sắc, ôn hòa.

Bài thơ có một cấu trúc độc đáo: lời của con hổ trong lồng sắt của vườn bách thú, hồi tưởng về những kí ức về cảnh rừng xanh và thời kỳ oanh liệt, thể hiện mong muốn sâu sắc về những hình ảnh hùng vĩ, tự nhiên, khao khát tự do, và biểu hiện sức mạnh tự nhiên của bản thân, cũng như mong đợi sự giải phóng cá tính. Bài thơ đồng thời truyền tải một chút tình cảm với thời kỳ hào hùng nhất của đất nước. Mặc dù lời là của con hổ, nhưng tác giả vẫn giữ nguyên tính nhân văn: 'Lời con hổ ở vườn bách thú', để làm nổi bật rằng đây không phải là lời của con người. Lời mũi nhọn này không chỉ phủ đậy cái nhìn mà còn nhắc nhở người đọc không nên quá mải mê suy nghĩ.

Hai câu đầu tiên giới thiệu tình trạng và tâm trạng của con hổ:

Nắm trọn nỗi căm hận trong lồng sắt,Tôi nằm dài, nhìn ngày tháng trôi qua.

Nhấm nháp không phải là ngậm, mà như là mình tự tạo nên hương vị đắng của mình. Như một người sưu tầm những hờn thù, tôi gặm nhấm chúng, nhưng chưa bao giờ nuốt chửng. Trong từ 'khối', có một đám mây tình cảm lớn, đen tối, chưa bao giờ tan biến. Người xưa thường dùng từ 'khối' để mô tả những tình cảm u uất, chưa được giải phóng. Tư thế nằm dài của tôi là biểu hiện của sự chán chường, tuyệt vọng, không có cách gì giải quyết được, giống như con thú nào cũng có thể nằm dài được?

Nhưng đằng sau vẻ ngoại lệ, ở tâm hồn, tôi vẫn giữ lại những kí ức mạnh mẽ như một con hổ với những tình cảm kiên cường.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Sáu dòng kế tiếp kể về sự nhục nhã của con hổ, là sự hiểu biết về sự khác biệt giữa con người và động vật. Có gì đau đớn hơn khi một con hổ - vị thần của rừng sơn - lại không được sợ hãi, bị lợi dụng như một món đồ chơi, đặt cùng hàng với gấu, báo? Trước mắt mọi người, chúng chỉ là đám người dại dột, ngớ ngẩn, và thiếu suy nghĩ khi so sánh với hổ.

22 dòng tiếp nối câu chuyện về tình yêu, niềm nhớ nhung một thời điểm hồi hương: Khi mọi thứ xưa cũ đều như một ký ức xa xăm, như không bao giờ quay lại được!

Phần kết của bài thơ hiện lên như một cảm xúc dữ dội, đau đớn và không hy vọng. Tôi nằm dài, nhìn qua thời gian và than thở! Những thời kỳ hồi hương đã mất đi đâu, và cuối cùng là không còn có cơ hội nào để trải qua những khoảnh khắc ấy, làm cho nỗi nhớ của tác giả trở nên bi đát.

Nhớ rừng không chỉ là niềm khao khát về thiên nhiên, tự do, sự giàu có, và ham muốn trở thành chủ nhân của cảnh đẹp, mà còn là âm thanh của sự chia tay không hòa nhập với thế giới giả tạo. Mặc dù thời kỳ hồi hương đã qua, mặc dù nó không thể quay lại, nhưng con hổ vẫn thuộc về thời đại quá khứ, không bao giờ chấp nhận làm đồ chơi, làm niềm vui cho con người, không bao giờ hòa mình vào thế giới hiện tại.

Bài thơ truyền đạt một tình yêu đối với đất nước. Nhà phê bình văn học Lê Đình Kị viết: 'Trong thơ lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945, không có sự đề cập đến tình yêu cá nhân, không đi sâu vào những cảm xúc riêng tư như bài Nhớ rừng nổi tiếng của Thế Lữ. Câu chuyện về con hổ ở vườn thú không chỉ là câu chuyện của một con vật, mà còn là câu chuyện của con người sống trong tù ngục của một chế độ cũ. Khi đọc những dòng thơ của Thế Lữ, chúng ta dễ dàng liên kết với số phận bị ràng buộc, mất tự do, và bị trói buộc trong thời kỳ thuộc địa Pháp. Quá khứ hùng vĩ của con hổ trước khi bị giam cầm cũng khiến chúng ta nhớ về sự oai hùng của cha ông. Những kí ức về thời kỳ hồi hương càng làm chúng ta cảm thấy uất ức trước sự bị hãm hiếm, bị bó buộc trong môi trường chật hẹp, không có gì lớn lao'. Đó là những phân tích đầy sáng tạo.

Bài thơ tràn đầy sự sáng tạo trong cách sắp xếp từ ngữ và nhịp điệu. Có những từ ngữ mới xuất hiện như: bốn phương ngàn, giấc mộng ngàn; cùng với những diễn đạt vô cùng hấp dẫn như bọn gấu ngốc nghếch, nằm dưới nách những đồi núi thấp bé, cảnh rừng đầy ma mị,... điều này nổi bật trong cách tạo hình cho câu thơ tiếng Việt.

5. Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, phiên bản 5:

Thay vì lời của con hổ tại Bách Thú, Thế Lữ sáng tác Nhớ rừng để thể hiện lòng uất hận vì sự mất mát tự do, và niềm nhớ mong cuộc sống tự do. Đây là một khúc ca bi thương về tự do, xuất hiện vào khoảng những năm 1930. Đất nước mất mát, những người có lương tâm trở thành nô lệ cảm thấy đau lòng, đầy buồn bã và căm hận cuộc sống 'nhục nhã tù hãm'. Thỉnh thoảng, họ muốn hòa mình vào tiếng la hét, muốn thể hiện sự giận dữ và tức tối. Có những người có lòng dũng cảm đã chọn con đường cách mạng, trong khi những người khác thể hiện tinh thần của họ qua những hành động riêng biệt. Nhà thơ chọn cách thể hiện qua bài thơ của mình. Trong mọi thời đại, trong hoàn cảnh như vậy, những tình huống như vậy sẽ tạo ra những bản thơ như thế, với sự khác biệt chỉ ở cách thể hiện cụ thể, phong cách cụ thể, và nghệ thuật tư duy cụ thể. Điều đặc biệt trong bản tính của Thế Lữ là nhà thơ mượn tâm trạng, tâm sự của con hổ bị giam cầm trong Bách Thú. Tuy nhiên, khao khát tự do vẫn mạnh mẽ, mãnh liệt. Điều này là sự thèm khát tự do cá nhân của tác giả Thơ mới thể hiện thông qua từ ngữ của con hổ bị giam trong lồng sắt. Một điểm đáng chú ý là mặc dù bài thơ có những từ và ý nếu dựa vào góc nhìn của chủ nghĩa tập thể thông thường; và dựa vào quan điểm 'phi ngã' (giấu bản thân, không đề cao cá nhân, tránh nhấn mạnh quá nhiều về bản thân) của triết lý phương Đông có thể bị coi là kiêu ngạo, quá mức.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Bài văn Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ một cách ngắn gọn

'Mục hạ vô nhân' (trong tầm nhìn của tôi, không có ai) thực tế không tạo ra cảm giác này. Khi đọc Nhớ rừng với những câu như: 'Gặm khối căm hờn trong lồng sắt; Nằm dài nhìn ngày tháng trôi qua; Khinh thường những người kiêu căng, ngơ ngẩn; Nhìn bé giễu oai lãnh rừng sâu' hay 'Trong hang tối, đôi mắt thần bóp chặt; Làm cho mọi thứ im lặng. Tôi biết tôi là chúa tể của muôn loài; Giữa cảnh thiên nhiên vô danh và bất tận'... Mĩ cảm không bị làm xáo trộn. Chỉ cảm nhận sự rung động trước vẻ đẹp oai hùng, vẻ đẹp của sự kiêu hãnh trên đỉnh cao của tự do. Những câu, những ý như vậy trong bức tranh tổng thể của bài thơ chỉ làm tôn lên vẻ đẹp của tượng trưng thơ mà không làm mất đi nó. Tại sao lại như vậy? Vì nhân vật chân thật ở đây không phải là một cá nhân mà là khao khát tự do mãnh liệt. Hình ảnh con hổ mạnh mẽ, chúa sơn lâm bị giam trong lồng sắt với những nỗi đau, hồi ức về cuộc sống tự do; thân phận bị giam giữ tù túng, nỗi buồn, sự oan trái... tạo ra một sự tương đồng đẹp, lớn lao với khao khát tự do cá nhân của con người, không phải của cá nhân đó.

Bằng nghệ thuật tinh tế trong việc diễn đạt cảnh vật, tâm trạng, khi đọc Nhớ rừng, như Hoài Thanh, Hoài Chân đã mô tả 'những chữ như bị xô đẩy, bị dẫn độ bởi một sức mạnh phi thường'. Câu thơ liên tục hiện ra không ngừng; hơi thơ đọng sâu, bi tráng trào phun, Trong toàn bộ bài thơ, những lời nghe như 'tính cách cực đoan' chỉ là một sự than thở, một nỗi buồn, nỗi uất hận đầy bi thương, càng bi thương hơn. Và tâm hồn văn chương bi thương, bi thương này cùng với ý nghĩa tư tưởng của khao khát tự do kết hợp thành hình ảnh vị chúa tể bị giam giữ đã tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm thuộc hàng vĩ đại của Thơ mới.

6. Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, mô hình số 6:

Nhớ rừng là một tác phẩm xuất sắc của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Với giai điệu êm đềm, với hình ảnh thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt là hình tượng con hổ, Nhớ rừng đã chinh phục trái tim mỗi người, chiếm lĩnh tâm hồn đậm sâu của nhiều người trong hơn nửa thế kỷ trôi qua.

Con hổ là nhân vật được nhà thơ mê tín với sự đồng cảm và kính trọng. Nó hiện đang giam giữ trong lồng sắt của vườn Bách thú. Chúa sơn lâm, bị tù hãm trong tình cảnh đắng ngắt, tràn đầy uất hận và căm ghét đã tích tụ thành một khối cảm xúc. Làm sao có thể không căm ghét khi phải nằm dài, quan sát thời gian trôi qua trong chiếc lồng sắt? Không thể không uất hận, căm ghét khi chúa sơn lâm trở thành mục tiêu trêu đùa của lũ người, với đôi mắt bé giễu oai lãnh giữa rừng sâu, trở thành một đồ chơi, cùng với đôi báo không lo lắng trong vườn bách thảo. Thế Lữ đã diễn đạt tâm trạng đau đớn, căm ghét của con hổ khi mất đi tự do đầy ảm đạm:

Gặm một khối căm hờn trong lồng sắtTa nằm dài trông ngày tháng dần qua...(...), Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm...

Như vậy, ta càng nhận ra: Thậm chí khi hùm thiêng đã sa cơ, cũng trở nên hèn nhát (Truyện Kiều - Nguyễn Du); ta càng hiểu rõ: trên thế giới có vô vàn điều đắng cay - Đắng cay nhất là mất đi tự do (Nhật ký trong tù - Hồ Chí Minh).

Những năm tháng trôi qua, chúa sơn lâm chưa bao giờ quên nỗi nhớ về rừng. Nhớ về thời kỳ hùng hồn những ngày xưa.

Hồi tưởng về cảnh sơn lâm, bóng cây rủ giàVới âm thanh của gió hú vang, với tiếng núi rít gào...

Như một tư thế hùng vĩ, oai hùng của ta. Một bước chân, tạo ra dáng điệu sóng sánh, một thân hình quyến rũ lượn sóng, một cử chỉ vờn bóng... Tất cả đều tràn ngập sức sống, với sự đường hoàng. Một chữ ta vang lên, toát lên niềm tự hào của chúa sơn lâm:

Ta bước chân lên, hùng tráng, đường đi lộng lẫyThân thể lượn sóng như dáng sóng nhẹ nhàngĐón bóng âm thầm, lá gai, cỏ màu.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

6. Mô hình Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Quyền lực của ta vô song. Mọi thứ đều phải kính sợ, yên bình khi đôi mắt thần của ta mở to. Ta là chúa tể của mọi sinh linh,

Bóng tối, đôi mắt thần đã mở to,Làm cho mọi thứ yên lặng.Ta là vị chúa tể, mọi sinh linh đều phải kính sợ,Trong thế giới rừng hoang vô danh và vô hạn.

Nỗi nhớ về rừng là nỗi nhớ về quyền lực... của chúa sơn lâm cũng là ký ức về những thời kỳ khó quên. Nỗi nhớ đó cũng là lòng khao khát sống, khao khát tự do cháy bùng.

Hổ nhớ về rừng là ký ức về những thời kỳ huy hoàng và óng ả, những khoảnh khắc mãnh liệt. Phong cảnh tráng lệ. Tiếng nhạc trong bài thơ cũng là âm nhạc của rừng.

Nơi là những đêm vàng bên lụt suối,Ta đắm chìm, uống ánh trăng tan?Ở đâu những ngày mưa rơi bốn phương ngàn,Ta nhìn đời mình thay đổi?Ở đâu bình minh xoa dịu tia nắng mát,Âm nhạc chim hòa vào giấc ngủ tỉnh?Ở đâu chiều lênh đênh máu sau rừng,Ta đợi chết dưới bức tranh hoàng hôn đẹp?Than ôi! Thời oanh liệt ấy đã bay đi đâu?

Những hòa quyện, từ nhẹ nhàng: ở đâu những đêm vàng..., ở đâu những ngày mưa..., ở đâu bình minh..., ở đâu chiều..., nay còn đâu? lặp lại liên tục trong bốn câu hỏi tưởng chừng như tạo nên bản nhạc êm đềm, êm dịu, sâu lắng, truyền đạt cảm xúc sâu sắc về tình yêu và nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, hối tiếc về một thời kỳ huy hoàng giờ chỉ còn là quá khứ, một kỷ niệm. Chúa sơn lâm nhớ đêm huyền bí, nhớ ngày tươi sáng, nhớ bình minh tươi đẹp, nhớ chiều tà ấm áp, nhớ suối uốn lượn, nhớ ánh trăng bạch dương, nhớ cảnh đẹp giang sơn trong màn mưa, nhớ cây xanh nắng tỏa, nhớ những giai điệu chim hòa vang trong không gian bình minh, nhớ mặt trời lụa chiều gốc rừng... Nỗi nhớ hối tiếc đó còn là niềm đau lòng bị tước đoạt tự do, đồng thời là lòng khao khát sống, khao khát tự do. Thế Lữ đã tạo ra những câu thơ phong cách, phong cách độc đáo để truyền đạt nỗi nhớ về rừng của con hổ... Một thanh âm chẳng kìm lại, khơi gợi và khuấy động tâm hồn:

Than ôi! Thời oanh liệt nay đã lạc mất đâu?

Bị mất tự do, bị giam hãm trong cái cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ mãi rừng. Cảm giác đau đớn và lòng uất hận khi nào mới chấm dứt? Như một tiếng thở dài u buồn:

Ngày nay, ta ôm niềm uất hận chấn động.

Làm chúa sơn lâm, khắc sâu cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, ta kìm lại cảm xúc uất hận, căm ghét những bức tranh tẻ nhạt, vô nghĩa, vô vị giả mạo nhỏ bé:

Hoa xinh, cỏ mảnh, đường phẳng mịn,Nước đen giả mạo, chảy dòng chẳng thấuLen dưới bóng mô gò thấp kém.

Chán ghét cảnh tù hãm, phẫn nộ trước những hình ảnh tầm thường nhỏ bé, do lũ người ngạo mạn trình diễn, lòng hổ nhớ mãi, không quên vẻ hùng vĩ của núi rừng. Nhớ rừng là nhớ đến vương quốc tự do ngày xưa:

Nơi mà hầm thiêng, ta trụ vữngLàm ta tự do, đầy vùng vẫy ngày xưa.

Đối mặt với thực tại đau thương, hổ chỉ biết giải thoát linh hồn theo giấc mộng ngàn. Chúa sơn lâm vang lên lời gọi rừng thiêng với biển cả kỷ niệm đắm chìm, lòng tràn đầy xúc động:

Hỡi cảnh rừng ghê gớm, hãy lắng nghe!

Nhớ rừng, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Thể thơ tự do, từ ngôn đẹp, hình tượng hùng vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc dâng trào. Con hổ sa cơ, bi thương, uất hận, lưu luyến nhớ rừng, đầy tâm huyết, tận cùng tận cùng ám ảnh.

Trong bức tranh thơ hùng vĩ (1934), hồn lực bất hạnh, nỗi đau đớn và oan trái... của chàng trai nhớ về cánh rừng điệu với bi kịch của dân tộc đang chịu đựng trong vòng xoáy của chế độ nô lệ. Ký ức về rừng là niềm khát khao sống, mong ước được tự do. Bài thơ như một thông điệp tinh tế, chân thành về tình yêu quê hương. Tư duy lớn nhất của bài thơ là giá trị của tự do. Hình ảnh chàng trai nhớ về hổ rừng là biểu tượng xuất sắc cho tư duy vĩ đại đó.

""""HẾT""""

Cùng với bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, các bạn có thể trước tiên tìm hiểu về những tác phẩm sẽ được học trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tập 2 như: Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, Phân tích bài thơ Quê hương của Tế Hanh, Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu, Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Pó.

Link nội dung: https://trungtamgiasuhanoi.edu.vn/bai-tho-nho-rung-a6878.html